Thứ Tư, 5 tháng 9, 2012

Đà Lạt sương mù: Quê hương thứ hai

Thời niên thiếu của tôi bắt đầu từ giai đoạn sống tại Đà Lạt từ năm 1953. Tôi còn nhớ, gia đình tôi rời sân bay Gia Lâm, giã từ Hà Nội, để bay thẳng vào Đà Lạt. Mãi đến tháng 7 năm 1954 mới có đợt di cư vào Nam chính thức của người miền Bắc. 

Việc sắp xếp như thế nào để thực hiện chuyến ‘di cư’ này tôi hoàn toàn không rõ vì khi đó còn quá nhỏ. Chỉ biết đại khái là bố tôi chuyển đơn vị vào Đà Lạt trước để phục vụ trong Ngự Lâm Quân dưới thời Bảo Đại và sau đó gia đình mới vào vùng đất được mệnh danh là Hoàng triều Cương thổ, đất của nhà vua.

Bố tôi trong quân phục Ngự Lâm Quân
(Đà Lạt, 1954)

Ngày vào Nam, tôi mới gần 7 tuổi, nhưng cho đến bây giờ trong ký ức vẫn còn sâu đậm giây phút đầu tiên đặt chân lên phi trường tại Đà Lạt mà hoàn toàn không biết tên.  (Bây giờ ngồi nhớ lại thì đó là sân bay Cam Ly, chỉ cách Đà Lạt khoảng 3km trong khi phi trường Liên Khương ngày nay nằm ở rất xa thành phố). 

Phi trường Liên Khương (1968)

Trời tối mờ bóng người, mưa rả rích, không khí lành lạnh. Đó là những cảm nhận đầu tiên trong đầu óc cậu bé về thành phố sương mù. Trong lúc cả gia đình còn đang ngỡ ngàng trước khung cảnh mới lạ và đầu óc còn lâng lâng sau gần 3g bay bổng trên mây thì mẹ tôi bỗng lên tiếng: “Cậu kìa!”. (Gia đình tôi vẫn còn giữ phong tục của một số người miền Bắc: Bố được gọi là Cậu, Mẹ là Mợ).

Tôi chỉ nhìn thấy mờ mờ trong màn sương một bóng người mặc áo mưa đang tiến dần về phía 5 mẹ con. Cuối cùng thì gia đình gặp nhau, mừng mừng tủi tủi.

Chiếc xe Peugeot 201 màu đen chở chúng tôi vào thành phố. Đầu óc non nớt của tôi thoáng có ý nghĩ: “Cậu mình có cả ôtô nữa!’. Xe dừng lại tại một biệt thự nhỏ trên đường Cầu Quẹo, hình như ngày nay đổi tên thành Phan Đình Phùng. Sau khi nhận tiền, tài xế lái Peugeot đi, khi đó tôi mới nhận ra xe Peugeot không phải của Bố, chỉ là chiếc... Taxi!

Xe taxi hai màu đen trắng của Đà Lạt xưa 
đậu trước cửa Lò bánh mì Winh Chan (Vĩnh Chấn) tại Khu Hòa Bình

Căn nhà trên đường Cầu Quẹo là của ông Vũ Tất Đắc, bạn cùng Ngự lâm quân với bố tôi. Gia đình tôi ở tạm tại đây trước khi mua chung nhà với ông Đắc trên đường Phạm Hồng Thái-Lê Thái Tổ, gần gara Martinette. Gia đình ông Đắc có 3 người con, trong đó có Được chỉ hơn tôi chừng 1 hoặc 2 tuổi, học trường Petit Lycée. Ông Đắc cũng khéo đặt tên con, Được với Đắc cũng chỉ là một nghĩa.

Căn nhà xưa ngày nay đã đổi chủ

Sau này, ở năm cuối trung học, Được và tôi có dịp học chung lớp Đệ Nhất tại trường Trần Hưng Đạo. So với tôi, Được là kẻ ‘biết đời’ rất sớm vì nhà ông Đắc có phòng cho các cô gái nhảy thuê nên ‘cậu chủ’ có cơ hội tiếp xúc với giới chị em ta ngay từ thời còn đi học.

Tháng 7/2009 tôi gặp lại Được vẫn còn ở Đà Lạt, vẫn tại căn nhà trên đường Phạm Hồng Thái-Lê Thái Tổ gần Trại Hầm. Được bây giờ đã là một ông già hom hem, răng cỏ cái còn cái mất nhưng vẫn còn mở lớp dạy Anh văn tại nhà để kiếm thêm đồng ra đồng vào. Chúng tôi ngồi nói chuyện ngày xưa biết bao nhiêu kỷ niệm buồn vui. Vợ Được là Trang, gốc người Nha Trang, bị sưng khớp đầu gối, đi đứng khó khăn. Các con Được nói chung đều thành đạt, đứa làm việc ở Saigon, đứa dạy học trên Đà Lạt, có đứa sắp đi du học ở châu Âu. 

Ông Đắc có người con lớn là anh Tự, anh làm ‘lính kèn’ nên rất văn nghệ và chắc chắn rất giỏi nhảy đầm. Tôi còn nhớ có lần thấy anh vòng tay ôm một người tưởng tượng theo tiếng nhạc phát ra từ radio. Anh Tự nay đã mất nhưng còn nhà cửa, đất đai ngay ở gần chỗ của Được.

Gia đình ông Đắc còn có chị Hải vào chạc tuổi với ông anh lớn của tôi, anh Nghiêm. Hình như hai gia đình có ý sẽ tác thành cho 2 anh chị nhưng có lẽ không có duyên số nên sau này chi Hải lấy chồng người Nha Trang còn anh Nghiêm vào không quân.

Năm 1975, gia đình tôi mất liên lạc với anh Nghiêm, sau vài năm mới được thư anh từ Oklahoma City và cũng chỉ vài năm sau lại được tin anh mất tại đây. Cho đến lúc mất, anh Nghiêm vẫn sống độc thân, chưa một lần lấy vợ.

Khi mất, anh Nghiêm chỉ có thân nhân duy nhất tại Mỹ là gia đình chú Thanh – cô Loan. Từ Kansas City cô chú lái xe đến Oklahoma lo hậu sự và những thủ tục giấy tờ bảo hiểm nhân thọ của anh Nghiêm. Chuyện này tương đối nhiêu khê, tôi sẽ viết trong một dịp khác.

Chú Thanh & Cô Loan (góc trái)
trong lễ hạ huyệt anh Nghiêm tại Oklahoma City (1985)

***

Bây giờ thì quay trở lại với thành phố sương mù. Những ngày đầu tiên vào Đà Lạt tôi có dịp khám phá những chuyện thật trẻ con. Chúng tôi chơi trốn tìm, tôi đinh ninh là bạn mình trốn sau cánh cửa nhưng cu cậu lại xuất hiện sau tấm màn đỏ và reo lêu: “Lêu lêu mắc cở”. Người Bắc không có chữ ‘mắc cở’ nên tôi suy luận ‘mắc cở’ là... cái màn cửa màu đỏ.

Có thể gọi đó là cultural shock ở mức độ trẻ con khi có sự khác biệt về ngôn ngữ giữa hai miền Nam-Bắc. Người miền Bắc nói “Nhặt hộ tôi qủa bóng” nhưng người miền Nam dùng những từ khác hoàn toàn để diễn tả cùng ý nghĩa: “Lượm giùm qua trái banh”. Ở trong Nam, bạn bè cùng lớp gọi nhau bằng trò sau này tiếng trò được thay bằng bạn; người Bắc gọi cây bút nhưng ở miền Nam lại gọi là cây viếtcục tẩy được thay bằng cục gôm tại miền Nam, v.v...

Những người Bắc mới di cư vào Nam thường có khuynh hướng bắt chiếc sử dụng những từ và cách phát âm của miền Nam, chẳng hạn như hột vịt đọc thành hột ‘dzịt’, đôi vớ (tất) thành đôi ‘dzớ’. Quả thật nghe rất… chướng tai! Hiện tượng này cũng xảy ra sau năm 1975, số người miền Bắc nhập cư miền Nam ngày càng đông và người ta thấy những trường hợp người Bắc cố sửa giọng Nam để hòa nhập. Tại sao người ta không giữ giọng điệu của địa phương mình khi đến một địa phương khác?

Đối với những học sinh di cư từ Bắc vào Nam như tôi cũng không phải là ngọai lệ. Tôi cố theo lối phát âm miền Nam khi ở trường vui chơi với bạn bè nhưng khi về đến nhà tôi lại giữ nguyên giọng Bắc. Cho đến bây giờ tôi vẫn giữ giọng Bắc khiến nhiều người vẫn tưởng tôi là ‘Bắc kỳ 75’ chứ không ngờ là ‘Bắc kỳ 54’! Dù sao đi nữa, tôi vẫn hãnh diện là Bắc kỳ 54, có người còn gọi là Bắc kỳ 9 nút (5+4=9 nút) để phân biệt với Bắc kỳ 2 nút (7+5=2 nút)!

Thành phố sương mù

Không biết một thi sĩ nghiệp dư nào đó làm cả một bài thơ nói về sự khác biệt trong cách dùng từ giữa hai miền Nam-Bắc:

   Bắc bảo kỳ, Nam kêu cọ
   Bắc gọi lọ, Nam kêu chai
   Bắc mang thai, Nam có chửa
   Nam xẻ nửa, Bắc bổ đôi
   Ôi! Bắc quở gầy, Nam than ốm
   Bắc cáo ốm, Nam khai bịnh
   Bắc định đến muộn, Nam liền la trễ
   Nam mần sơ sơ, Bắc làm lấy lệ
   Bắc lệ tuôn trào, Nam chảy nước mắt
   Nam bắc vạc tre, Bắc kê lều chõng
   Bắc nói trổng thế thôi, Nam bâng quơ vậy đó
   Bắc đan cái rọ, Nam làm giỏ tre,
   Nam không nghe nói dai, Bắc chẳng mê lải nhải
   Nam cãi bai bải, Bắc lý sự ào ào
   Bắc vào ô tô, Nam vô xế hộp
   Hồi hộp Bắc hãm phanh, trợn tròng Nam đạp thắng
   Khi nắng Nam mở dù, Bắc lại xoè ô
   Điên rồ Nam đi trốn, nguy khốn Bắc lánh mặt
   Chưa chắc Nam nhắc từ từ, Bắc khuyên gượm lại
   Bắc là quá dại, Nam thì ngu ghê
   Nam sợ ghê, Bắc hãi quá
   Nam thưa tía má, Bắc bẩm thầy u
   Nam nhủ ưng ghê, Bắc mê hài lòng
   Nam chối lòng vòng, Bắc bảo dối quanh
   Nhanh nhanh Nam bẻ bắp, hấp tấp Bắc vặt ngô
   Bắc thích cứ vồ, Nam ưng là chụp
   Nam rờ bông bụp, Bắc vuốt tường vi
   Nam nói: mầy đi! Bắc hô: cút xéo!
   Bắc bảo: cứ véo! Nam: ngắt nó đi.
   Bắc gửi phong bì, bao thơ Nam gởi
   Nam kêu: muốn ói, Bắc bảo: buồn nôn
   Bắc gọi tiền đồn, Nam kêu chòi gác
   Bắc hay khoác lác, Nam bảo xạo ke
   Mưa đến Nam che, gió ngang Bắc chắn
   Bắc khen giỏi mắng, Nam nói chửi hay
   Bắc nấu thịt cầy, Nam thui thịt chó
   Bắc vén búi tó, Nam bới tóc lên
   Anh Cả Bắc quên, anh Hai Nam
   Nam: “ăn đi chú”, Bắc: “mời anh xơi”
   Bắc mới tập bơi, Nam thời học lội
   Bắc đi phó hội, Nam tới chia vui
   Thui thủi Bắc kéo xe lôi, một mình xích lô Nam đạp
   Nam thời mập mạp, Bắc cho là béo
   Khi Nam khen béo, Bắc bảo là ngậy
   Bắc quậy sướng phê, Nam rên đã quá
   Bắc khoái đi phà, Nam thường qua bắc
   Bắc nhắc môi giới, Nam liền giới thiệu
   Nam ít khi điệu, Bắc hay làm dáng
  
   Tán mà không thật, Bắc bảo là điêu
   Giỡn hớt hơi nhiều, Nam kêu là xạo
   Bắc nạo bằng gươm, Nam thọt bằng kiếm
   Nam mê phiếm, Bắc thích đùa
   Bắc vua bia bọt, Nam chúa la-de
   Bắc khoe “bùi bùi lạc rang”, Nam “thơm thơm đậu    phọng
   Bắc xơi na vướng họng, Nam ăn mãng cầu mắc cổ
  
   Khi khổ Nam tròm trèm ăn vụng, Bắc len lén ăn vèn
   Nam toe toét “hổng chịu đèn“, Bắc vặn mình “em chả
   Bắc giấm chua “cái ả”, Nam bặm trợn “con kia
   Nam mỉa “tên cà chua“, Bắc rủa “đồ phải gió
   Nam nhậu nhẹt thịt chó, Bắc đánh chén cầy tơ
   Bắc vờ vịt lá mơ, Nam thẳng thừng lá thúi địt
   Đến khi Nam địt, Bắc hô đánh rắm
   Khi thấm, Nam xách thùng thì Bắc bê sô
   Nam bỏ trong rương, Bắc tuôn vào hòm
   Nam lết vô hòm, Bắc mặc áo quan
   Bắc xuýt xoa: “Cái Lan xinh cực!
   Nam trầm trồ: “Con Lan đẹp hết chê!
   Phủ phê Bắc trùm chăn, no đủ Nam đắp mền
   Tình Nam duyên Bắc có thế mới bền mới lâu!

***

(Trích Hồi Ức Một Đời Người – Chương 4: Thời niên thiếu)

Hồi Ức Một Đời Người gồm 9 Chương:

  1. Chương 1: Thời thơ ấu (từ Hà Nội vào Đà Lạt)
  2. Chương 2: Thời niên thiếu (Đà Lạt và Ban Mê Thuột)
  3. Chương 3: Thời thanh niên (Sài Gòn)
  4. Chương 4: Thời quân ngũ (Sài Gòn – Giảng viên Trường Sinh ngữ Quân đội)
  5. Chương 5: Thời cải tạo (Trảng Lớn, Trảng Táo, Gia Huynh)
  6. Chương 6: Thời điêu linh (Sài Gòn, Đà Lạt)
  7. Chương 7: Thời mở lòng (những chuyện tình cảm)
  8. Chương 8: Thời mở cửa (Bước vào nghề báo, thập niên 80)
  9. Chương 9: Thời hội nhập (Bút ký những chuyến đi tới 15 quốc gia và lãnh thổ)

Tác giả còn dự tính viết tiếp một Chương cuối cùng sẽ mang tên… Thời xuống lỗ (thập niên 2000 cho đến ngày xuống lỗ)!

***

3 Comments on Multiply

thahuong82 wrote on Oct 25, '10
Giọng Bắc Kỳ 54 và 75 hoàn toàn khác xa nhau một trời một vực.
Chất giọng 54 thuần túy của người Thăng Long ngàn năm Văn Hiến, lúc phát âm rất chuẩn trong tiếng Việt và âm thanh trầm, bổng, nặng nhẹ rất hay rất hợp với câu chuyện đang nói. Tôi rất mê giọng Bắc Kỳ 54 nên đã ký bản án chung thân với cô Bắc Kỳ nho nhỏ..
Dân Bắc bây giờ ở Hà Nội còn không tới 25% vì đa số đã di cư họăc đã già và chết, 75% còn lại được du nhập từ ruộng đồng nương rẩy (giai cấp vô sản làm chủ mà) các tỉnh là con, em , bà con của cán bộ "cách mệnh" theo chân bác Hồ vào từ muà thu chết 45, vì vậy chất giọng không còn thuần tuý là dân HN thuở xưa mà THE THÉ nghe rợn người, nghe là biết liền à.
Anh đã nghe nét đặc trưng của Văn Hóa Hà Nôi bây giờ chưa, tóm gọn trong mấy chữ sau: Bún quát, Phở đuổi, Cháo chưởi. Đi ra các hàng quán khắp 36 phố phưòng sẽ biết (nguồn: phóng sự báo Tuổi trẻ)
Nên hảnh diện với giọng Bắc Kỳ 54.

nguyenngocchinh wrote on Oct 25, '10
thahuong82 said “Giọng Bắc Kỳ 54 và 75 hòan toàn khác xa nhau một trời một vực.
Tôi hoàn toàn đồng ý với anh về sự khác biệt giữa giọng Bắc 54 và Bắc 75. Nếu tinh ý, người ta còn có thể nhận ngay sự thay đổi giữa giọng Hà Nội 54 và giọng Hà Nội ngày nay nữa! Đây là những đề tài văn hóa đã tốn không ít giấy mực của các học giả... Có điều giọng Hà Nội trước 54 đang dần bị 'thôn tính' vì các điều kiện lịch sử cũng như xã hội! Ta đành chấp nhận vì không ai có thể thay đổi cả một trào lưu!

caibang9 wrote on Oct 25, '10
nguyenngocchinh said “Ta đành chấp nhận vì không ai có thể thay đổi cả một trào lưu!”
Thôi thì "giết không được, tha làm phúc" anh Chỉnh nhỉ? huhuhu
Chúc anh vui

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

:) :( :)) :(( =))

Popular posts