Chủ Nhật, 31 tháng 1, 2016

Sài Gòn xưa : Ăn Chơi ngày Tết

“Ngày xuân nâng chén ta chúc nơi nơi
Mừng anh nông phu vui lúa thơm hơi
Người thương gia lợi tức
Người công nhân ấm no
Thoát ly đời gian lao nghèo khó…”

Đó là những ca từ mở đầu cho bài nhạc quen thuộc “Ly rượu mừng” [1] của nhạc sĩ Phạm Đình Chương. Mỗi độ xuân về, cho đến tận bây giờ, “Ly rượu mừng” đã đi vào ký ức của người miền Nam nói chung và người Sài Gòn nói riêng. Tuy nhiên, mãi tới năm nay (2016) nhà nước mới “cởi trói” [2] cho một bản nhạc tưởng chừng như… “vô tội vạ”.

Hình như, theo quan điểm chính trị của Cục Nghệ thuật Biểu diễn, lời của bản nhạc có câu chúc “người binh sĩ lên đàng” rồi lại vinh danh họ là “người vì nước quên thân mình”… (hiểu ngầm là quân nhân VNCH):

“… Rót thêm tràn đầy chén quan san
Chúc người binh sĩ lên đàng
Chiến đấu công thành
Sáng cuộc đời lành
Mừng người vì Nước quên thân mình…”

Bản nhạc được sáng tác năm 1956 với âm điệu tươi vui như một lời chúc Tết tốt đẹp theo truyền thống dân tộc. Lời chúc đó gửi tới mọi thành phần xã hội: từ “anh nông phu”, “người công nhân”, “đôi uyên ương”, “người nghệ sĩ” cho đến các thương gia và binh sĩ. Ngay từ khi ra đời, ca khúc đã được lòng khán thính giả và là tác phẩm được nghe nhiều nhất trong mỗi dịp xuân về tại Miền Nam.

“Ly rượu mừng”, nhà xuất bản Tinh Hoa ấn hành lần thứ nhất, năm 1956

Sài Gòn xưa ăn Tết rất kỹ. Theo đúng tính cách phóng khoáng, “xả láng” và “chịu chơi” của người Phương Nam:

“Tháng giêng là tháng ăn chơi
Tháng hai cờ bạc, tháng ba rượu chè”.

Người Miền Nam dùng thuật ngữ “ăn nhậu” để mô tả những hoạt động vui chơi, giải trí sau những ngày làm việc cật lực. Đó là cái tinh thần… “xả láng sáng về sớm”. Ngày Tết người ta tạm quên những công việc hàng ngày để đón mừng năm mới với hai thú vui chính là ăn uống và “nhậu nhẹt”.

Tùy theo túi tiền của từng người, rượu có thể là “rượu tây” thứ “xịn” như Whiskey, Bourbon, Johny Walker (Ông Già Chống Gậy), Champagne… hoặc các loại rượu “nội hóa” như Đế Gò Đen hay chai bia BGI “Con Cọp”… Để “đưa cay” nhiều khi chỉ cần “củ kiệu tôm khô”, thậm chí chỉ là miếng xoài, trái cóc. Dân nhậu thường nhắc:

“Ăn nem Thủ Đức
Uống rượu Bến Lức Gò Đen”.

Rượu Đế Gò Đen

Đối với nhiều gia đình, thiếu bánh chưng, bánh tét sẽ mất đi hương vị của Tết. Có nghèo lắm cũng cố rước về 1 hay 2 đòn bánh tét để trước là cúng ông bà và sau đó là “xẻ” ra cho con cháu để tìm lại chút hương vị ngày xuân. Có thêm vài miếng dưa món ăn kèm sẽ làm cho miếng bánh chưng, bánh tét đỡ ngán!

Nồi thịt kho hột vịt lúc nào cũng hiện diện trên bếp, hâm đi hâm lại sau mỗi lần ăn. Hạt dưa cắn lách tách đến độ đỏ hết hai vành môi, khỏi cần tô son. Có nhiều loại mứt Tết làm từ cây trái: mứt dừa, mứt bí, mứt mãng cầu, mứt me… Trái cây tươi thì có dưa hấu giải nhiệt trong cái nắng hanh vàng của những ngày Tết.

Người Sài Gòn có câu thật dí dỏm “Cầu Dừa Đủ Xài” là tổng hợp của của 4 loại trái: mãng cầu, dừa, đu đủ và xoài. Ngày nay, lang thang trên mạng tôi bắt gặp không phải là 4 thứ trái cây mà còn thêm cả Bơm (táo), Vú (vú sữa), Sung, Quất (tắc), Bầu.. Ta có một bài thơ “ngũ ngôn tứ tuyệt” rất gợi hình trong ngày Tết:

“Bơm vú dừa đủ xài
Cầu sung dừa đủ quất
Cầu quất dừa đủ bầu
Cầu bầu dừa đủ sữa”


Hết “ăn” lại nói đến chuyện “chơi” trong ngày Tết. Về khoản này, dân Sài Gòn chiếm ngôi vị “số dách” trong các món chơi. Tuy nhiên, cũng phải xác định có hai cách: “chơi” trong nhà và “chơi” ngoài đường. Nói khác đi là những trò đỏ đen, bài bạc vui xuân ngoài cộng đồng hoặc trong gia đình.

Có thể nói, “bầu cua cá cọp” là món thịnh hành nhất trong ngày Tết, diễn ra khắp mọi nơi, từ trong nhà ra ngoài đường. Sòng bầu cua lưu động ngoài đường còn có cả những người “canh me”, hễ thấy bóng dáng “phú-lít” là báo động giải tán.

Lập sòng bầu cua cũng đơn giản. Chỉ cần một miếng vải hoặc giấy vẽ hình 6 biểu tượng: nai, bầu, gà, cá, tôm và cua. Nhà cái còn trang bị thêm 3 viên súc sắc hình khối vuông, trên mỗi mặt có vẽ hình các biểu tượng tương ứng với 6 “linh vật”. Cần thêm một cái chén và cái đĩa để “lắc” ba viên xúc xắc.

Người chơi chỉ việc đặt tiền vào những “linh vật” sau khi nhà cái lắc 3 viên súc sắc được giữ kín trong chén úp trên đĩa. Sau khi mở chén, ba con súc sắc xuất hiện 3 “linh vật” và những ai đặt tiền vào linh vật đó sẽ được nhà cái “chung tiền”. Ngược lại, tiền đặt vào những ô không xuất hiện nhà cái sẽ… “hốt” hết.

Tính theo xác suất tỷ lệ thắng thua đối với nhà cái là 50% nhưng thực tế mỗi lần mở chén nhà cái chỉ thắng hoặc huề chứ ít khi thua. Trường hợp cả ba súc sắc đều giống nhau, nhà cái sẽ chung gấp ba nhưng nếu không ai đặt cửa này thì nhà cái sẽ “thắng lớn” vì gom tiền hết sòng!

Có người giải thích trò “bầu cua cá cọp” là một biến thể của “roulette” ở Phương Tây hay “tài sửu” (đại & tiểu) của Tầu. Đây là một trò cờ bạc thuộc loại “bình dân” có sức hấp dẫn cả người lớn lẫn trẻ em. Đối với trẻ em, nhân ngày Tết nhận tiền “lì xì” thường ghé vào các đám bầu cua trong xóm hoặc vui chơi trong gia đình, anh chị em tổ chức đánh bầu cua “thử thời vận năm mới”. Có một câu hát dí dỏm trẻ con đặt ra thời xa xưa khi chuyện chưởng của Kim Dung thịnh hành:

“Có cô gái Đồ Long lắc bầu cua,
Lắc ba cái ra ba con gà mái…”

“Bầu cua cá cọp” ngày Tết

Miền Nam tiếp xúc với văn hóa Phương Tây rất sớm nên bộ “Bài Tây” 52 cây đã thâm nhập vào các tỉnh phía Nam ngay sau khi người Pháp đặt chân đến Sài Gòn. Người ta làm quen với các con bài mang 4 ký hiệu: ♥ (cơ), ♦ (rô), ♣ (chuồn), ♠ (bích), tượng trưng cho 4 mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông trong khi bộ bài có 52 lá để chỉ 52 tuần trong một năm.

Mỗi lá bài còn có số in tương ứng với số của quân bài. Riêng lá bài K (King) có hình vua được “Việt hóa” là Già; Q (Queen) có hình hoàng hậu là Đầm: J (Joker) có hình tên hề gọi là Bồi. Riêng lá A (Ace) là Xì hoặc Ách, tương đương với con số 1. Bài Tây có rất nhiều cách chơi khi du nhập Miền Nam, sau 1975 cũng xuất hiện một số thuật ngữ lạ từ Miền Bắc như “tú lơ khơ” để chỉ bộ Bài Tây.

Từ bộ bài 52 cây này người ta có nhiều cách chơi. “Xì tố” hay “xì phé” (poker) với số người chơi từ 2 đến 6. Đầu tiên sẽ chia 2 lá trong đó có 1 con bài úp xấp để các người chơi “tố” bằng cách đi tiền. Người chơi có thể “theo” hoặc “tố ngược” với số tiền cao hơn ban đầu… ai có con bài lớn nhất sẽ thắng. “Binh xập xám” (Chinese poker) lại cần đủ 4 người chơi, mỗi người 13 cây nên mới gọi theo tiếng Tầu là “xập xám”.

Đó là những món có tính cách sát phạt, ăn thua lớn nhưng trong ngày Tết nhiều gia đình tổ chức những “sòng” mang ý nghĩa thuần túy của sự giải trí như “các tê” hay “xì lác”. Ăn thua không là vấn đề quan trọng, nhưng cái chính là ông bà, cha mẹ, con cái được dịp vui chơi trong những ngày xuân.

Một ván “xì lác” diễn ra rất nhanh vì mỗi người chỉ được chia có hai cây bài và tính điểm theo các con số trên cây bài. Riêng các lá có hình (K, Q, J) được tính là 10 và A có thể tính là 1, hoặc 10. Cao nhất là 21 nút, nếu thấy “chưa đủ tuổi” có thể bốc thêm nhưng coi chừng sẽ bị “oác” khi tổng số điểm vượt quá 21.

Tôi nghĩ “các tê” là môn chơi hấp dẫn hơn vì đòi hỏi người chơi phải biết tính toán cho hợp lý. Mỗi người được chia 6 quân bài, phải tính sao cho mình có ít nhất một cây được ngửa, tức là có “tùng”, mới có quyền “chưng” hai cây cuối. Nếu cứ “thiệp” (úp) hết coi như “tiêu tùng” sẽ bị loại khỏi cuộc chơi!  

Giai đoạn “chưng” cũng hồi hộp không kém. Nhiều khi “chưng” cây lớn để dành quyền làm chủ nhưng cây úp lại nhỏ tí mà vẫn thắng. Cũng có khi 2 cây cuối cùng rất lớn nhưng vẫn thua vì mình không có quyền “chưng”. Mỗi ván bài là cả một cuộc đấu trí vừa hồi hộp vừa vui nhộn trong không khí ngày Tết!       

Có người quan niệm đánh bài là để “thử thời vận đầu năm”. Người ta tin vào quy luật “đen tình, đỏ bạc” nên có thua bài thì cũng an ủi sẽ gặp vận hên, chẳng hạn như trong chuyện tình cảm lứa đôi.


Bộ bài Tây

Hơn 1 triệu đồng bào miền Bắc di cư vào Nam năm 1954 đã đem lại cho Sài Gòn nhiều thú vui ngày Tết mới lạ. Chơi bài tam cúc là một thú vui ngày Tết khá phổ biến trong các gia đình người Bắc di cư.

Bộ bài  gồm 32 lá mang hình Tướng, Sĩ, Tượng, Xe, Pháo, Mã, Tốt… theo thứ tự của các quân cờ tướng và chia thành hai màu đen và đỏ, trong đó các quân bài màu đỏ có giá trị cao hơn màu đen. Chẳng hạn “tướng bà” đè “tướng ông”, tịnh (tượng) “điều” (đỏ) có quyền “ăn” tịnh đen…

Trong một bộ bài chỉ có hai tướng, tiếp đó các quân khác có một đôi đỏ hoặc đôi đen và 5 con tốt cũng phân thành 2 màu đen-đỏ. Ngôn ngữ trong Tam Cúc rất đặc biệt: “Bộ đôi” là hai quân bài cùng màu, cùng tên như đôi Sĩ điều, đôi Pháo đen... “Bộ ba” gồm ba quân Tướng-Sĩ-Tượng và Xe-Pháo-Mã cùng màu.

Khác với bài Tứ Sắc, các quân bài được chia hết cho tất cả mọi người tham dự chiếu bài. Người làm cái sẽ ra bài đầu tiên và gọi bài: "một cây", "đôi cây" hay "ba cây"... được gọi thì những người chơi còn lại sẽ tương ứng cho ra số cây bài của mình.

Các cây bài được ra với mặt phải (mặt có ký hiệu quân) được giữ kín và úp xuống chiếu bài. Khi mọi người đã ra đầy đủ bài thì người gọi bài sẽ lật bài đầu tiên rồi theo thứ tự những người bên cạnh, ai có lá bài có giá trị lớn nhất thì người đó được bài và giành cái. Tuy nhiên, tất cả mọi người được phép “chui” bài bằng cách chịu thua và không lật bài lên để khỏi lộ bài.

“Tứ tử” là bốn quân Tốt cùng màu, nếu ai có sẽ “Tứ tử trình làng” để người khác tự động chui 4 cây bài. Trong trường hợp có đến 5 con Tốt sẽ được quyền “Ngũ tử cướp cái”. Lại có quyền “Đi đêm” với người khác khi gặp những quân bài quá xấu hoặc cần những cây mà mình không có.

Khi cây bài bị thua, người ta dùng thuật ngữ “bị đè”… cho nên nếu giữ lại một cặp tốt đen vào chung cuộc, gọi là “kết”, cũng có thể bị cặp tốt đỏ của đối phương “đè” mà lại còn bị “đền”! Trong bối cảnh một ván bài tam cúc, Lê Đình Điểu có bài thơ viết về mùa xuân thật dễ thương của đôi lứa:

“Tốt đỏ mà đè tốt đen
Kết nhất bội nhị làm em phải đền.
Ứ ừ người ta đang đen
Không thèm chơi nữa giả tiền tôi đây.
Ơ ơ bêu chửa cô này
Bị đè còn khóc giơ tay đòi tiền
Có gan để kết tốt đen
Tất có gan để chịu đền chứ sao?
“Ứ ừ , sao ở trên cao
Người ta thua mất sáu hào hai xu!..”
“Mười năm đi dưới trăng sao
Bây giờ dừng lại (nơi nào đây em?)
Ván bài đời có tốt đen
Trăm lần để kết phải đền cả trăm!

Thơ ngây thua nhẵn mười năm
Xòe tay thấy trắng khóc thầm cả đêm
Ngày xưa em khóc, anh đền
Bây giờ anh khóc ai đền cho anh?

Tam Cúc cũng đã đi vào thơ văn từ hồi tiền chiến. Nhà thơ Hồ Dzếnh tả người tình trong bài thơ “Cỗ bài Tam Cúc”:

“Ngày Tết mải chơi tam cúc
Không hay anh tới sau lưng
Ghé lại gần anh mách nước
Kết luôn xe pháo mã hồng.

Ô ván bài em đỏ quá
Đỏ như đôi má ngày xuân
Em có ăn trầu đâu nhỉ?
Mà sao người thấy bâng khuâng…”


Bộ bài Tam Cúc

Hơn 40 năm về trước, “Ly rượu mừng” đã chúc cho một đất nước Việt Nam tự do, thanh bình:

“Chúc non sông hoà bình, hoà bình
Ngày máu xương thôi tuôn rơi
Ngày ấy quê hương yên vui
Đợi anh về trong chén tình đầy vơi…”

Nhưng đến nay, những lời chúc đó vẫn chưa trọn vẹn. Một lần nữa, chúng ta cùng nâng ly để chúc cho một Việt Nam với muôn người hạnh phúc chan hòa:

“Nhấc cao ly này
Hãy chúc ngày mai sáng trời tự do
Nước non thanh bình
Muôn người hạnh phúc chan hoà

Ước mơ hạnh phúc nơi nơi
Hương thanh bình dâng phơi phới”

***

Chú thích:

[1] Xem video clip “Ly rượu mừng”: https://www.youtube.com/watch?v=qaltRkQEtdg

[2] Tham khảo bài viết “Sau 40 năm, ca khúc 'Ly rượu mừng' được hát Tết này”
http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/nhac/lang-nhac/sau-40-nam-ca-khuc-ly-ruou-mung-duoc-hat-tet-nay-3341444.html


***


(Trích Hồi Ức Một Đời Người – Chương 10: Thời xuống lỗ)

Hồi Ức Một Đời Người gồm 10 Chương:


1. Chương 1: Thời thơ ấu (từ Hà Nội vào Đà Lạt)

2. Chương 2: Thời niên thiếu (Đà Lạt và Ban Mê Thuột)

3. Chương 3: Thời thanh niên (Sài Gòn)

4. Chương 4: Thời quân ngũ (Sài Gòn – Giảng viên Trường Sinh ngữ Quân đội)

5. Chương 5: Thời cải tạo (Trảng Lớn, Trảng Táo, Gia Huynh)

6. Chương 6: Thời điêu linh (Sài Gòn, Đà Lạt)

7. Chương 7: Thời mở lòng (những chuyện tình cảm)

8. Chương 8: Thời mở cửa (Bước vào nghề báo, thập niên 80)

9. Chương 9: Thời hội nhập (Bút ký những chuyến đi tới 15 quốc gia và lãnh thổ)

Tác giả đang viết Chương cuối cùng mang tên… Thời xuống lỗ (thập niên 2000 cho đến ngày xuống lỗ)!
--> Read more..

Thứ Ba, 12 tháng 1, 2016

“Giải phẫu” đồng đô la Mỹ


Chuyện kể có một cô ca sĩ thuộc loại “chịu chơi”, khi được hỏi về âm nhạc, cô đã trả lời một cách hồn nhiên: “Trong âm nhạc có 7 nốt… do, re, mi, fa, sol, la, si… em thì chỉ thích hát những bài nào có nốt Đô và nốt La…”

Tuy chỉ là câu chuyện tiếu lâm… nhưng thiết nghĩ, đó cũng là một nhận xét rất thành thật: hầu hết chúng ta, ai mà chẳng thích đồng đô la… Nhưng phải là “đô la Mỹ” ($) chứ không phải là những đồng đô la Singapore, Hồng Kông… Chí ít cũng phải là đô la Úc… Phạm vi của bài viết này chỉ xoay quanh đồng đô la Mỹ được in trên giấy (bills, banknotes) còn đồng đô la bằng kim loại (coins) xin hẹn vào một dịp khác.

Ngoài Hoa Kỳ, đồng đô la còn được chính thức sử dụng tại các nước và lãnh thổ như Quần đảo Virgin (Virgin Islands), Đông Timor (Timor-Leste), Ecuador, El Salvador, Panama, Quần đảo Marshall, Quần đảo Turks và Caicos (Turks and Caicos Islands), Micronesia, Palau và Vùng quốc hải Hoa Kỳ (US Insular Areas).

Bên cạnh thuật ngữ chính thức "dollar", đồng đô la còn có nhiều tên gọi nôm na khác trong tiếng Anh như Buck, Clam, Dough, Frog, Green, Greenback, Potato, Cabbage, Duckket... Đồng tiền còn được người Mỹ gọi tên theo chân dung các nhân vật được in trên giấy bạc như Washington, Jefferson, Lincoln, Benjamin, Hamilton...

Theo thứ tự, mệnh giá nhỏ nhất là đồng 1 đô la ($1) có in hình George Washington (1732-1799), vị Tổng thống đầu tiên của Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ. Ông được coi như "vị cha già của dân tộc" và giữ chức vụ Tổng thống từ năm 1789 đến 1797. Người Mỹ ca tụng ông hết lời và đó cũng là lý do ông xuất hiện trên tờ giấy bạc $1 được lưu hành phổ biến nhất trong cuộc sống hàng ngày cho đến ngày nay.

“Giải phẫu” đồng $1 ta bắt gặp rất nhiều chi tiết cho thấy những thông tin về thời gian và địa điểm tờ giấy bạc được phát hành. Đầu tiên là “Con dấu của Cục Dự trữ Liên bang” (Federal Reserve Seal) nằm trên góc trái của đồng tiền.

Có đến 12 Ngân hàng Dự trữ Liên bang (Federal Reserve Bank) được giao nhiệm vụ in tiền trên toàn nước Mỹ. Mỗi ngân hàng được biểu thị bằng mã số mẫu tự theo thứ tự từ A đến L. Mã số này cũng được lập lại phía bên tay phải của hàng “số series” (serial number) in trên đồng tiền.

  1. Boston: A; 
  2. New York: B; 
  3. Philadelphia: C; 
  4. Cleveland: D; 
  5. Richmond: E; 
  6. Atlanta: F; 
  7. Chicago: G; 
  8. St. Louis: H; 
  9. Minneapolis: I; 
  10. Kansas City: J; 
  11. Dallas: K; 
  12. San Francisco: L.

“Số series” xuất hiện cả ở mặt trước và sau của đồng tiền, ngoài ra còn có “số series ngày” hoặc “số series năm” để ghi lại thời gian phát hành. Trên mặt trước của đồng $1 còn có hai chữ ký, một của Giám đốc Ngân khố Hoa Kỳ (Treasurer of the United States) bên trái và chữ ký của Bộ trưởng Ngân khố (Secretary of the Treasury) phía bên phải.

Quốc huy (the Great Seal) có hình con ó “American Bald Eagle” xuất hiện ở mặt sau, phía bên phải. Con ó mang hai bên chân 2 cành olive và chung quanh có khẩu hiệu bằng tiếng Latin "E Pluribus Unum", tạm dịch là “kết hợp từ rất nhiều để thành một”, hàm ý nước Mỹ là một quốc gia hợp bởi nhiều chủng tộc. Ở phía bên trái có biểu tượng kim tự tháp, trên đỉnh tháp là một con mắt với dòng chữ "Annuit Coeptis", tạm dịch là “Thượng đế phù hộ quyết tâm của chúng ta”.

Điều đặc biệt trên cả hai biểu tượng đều có lên quan đến số 13, tượng trưng cho 13 tiểu bang từ thời lập quốc Hoa Kỳ: 13 mẫu tự trong các khẩu hiệu bằng tiếng Latin, 13 tầng kim tự tháp, 13 mũi tên nơi chân con ó, 13 ngôi sao và 13 sọc đỏ trắng trên nền cờ. Xem ra Hoa Kỳ thời lập quốc hoàn toàn không tin dị đoan vào con số 13 như những người Âu châu!




Trong khi đồng $1 được mọi người sử dụng hàng ngày nên rất phổ biến thì đồng $2 lại là một câu chuyện khá thú vị. Tờ giấy bạc $2 được chính thức phát hành vào tháng 3/1862 nhưng đến năm 1966 lại tạm ngưng vì lý do "ít được sử dụng""không có tính cách phổ biến". Đó cũng là lý do khiến đồng $2 trở nên quý hiếm và có giá đối với những người sưu tầm tiền tệ.

Ít lưu hành dẫn đến tình trạng nhu cầu sử dụng đồng $2 ngày càng giảm. Thậm chí có nhiều người Mỹ còn không biết đến đồng tiền này dù trên thực tế vẫn tồn tại hợp pháp trên thị trường tiền tệ. Ngân khố Hoa Kỳ đã khẳng định:

“Đồng $2 vẫn là một trong những đồng tiền được công nhận. Tính đến 30/4/2007, đồng $2 có tổng giá trị 1.549.052.714 đô la hiện đang lưu hành trên toàn thế giới…”

Trên tờ giấy bạc $2, tái phát hành năm 1928, là chân dung của Thomas Jefferson (1743-1826), cha đẻ của Bản Tuyên ngôn Độc lập (Declaration of Independence) năm 1776. Ông cũng là người được bầu làm Phó Tổng thống thứ hai của Hoa Kỳ, nhiệm kỳ 1797-1801, và sau đó là Tổng thống thứ 3, nhiệm kỳ 1801-1809.

Đến năm 1976 đồng $2 lại được Quỹ Dự trữ Liên bang (Federal Reserve) tiếp tục phát hành. Một trong những lý do cho việc tái phát hành là Chính quyền Liên bang có thể tiết kiệm được 26 triệu đô la thông qua việc đồng $2 có thể thay thế gần một nửa số lượng giấy bạc $1 lưu hành trong năm 1976.

Mặt sau của đồng $2 là bức tranh của họa sĩ John Trumbull mô tả cảnh Bản Tuyên ngôn Độc lập được trình bày trước các nhà chính trị thuở Hoa Kỳ mới lập quốc. Bức tranh này thay thế hình ảnh đồn điền Monticello của Tổng thống Jefferson.

Đồng $2, Tổng thống Thomas Jefferson, phát hành năm 1928

Mặt sau đồng $2 với bức tranh “Declaration of Independence”, phát hành năm 1976

Chân dung Abraham Lincoln (1809-1865), Tổng thống thứ 16 của Hoa Kỳ, được chọn trên đồng $5. Ngày xưa, vào thế kỷ thứ 19 và đầu thế kỷ 20, đồng tiền này còn được gọi bằng cái tên bình dân là “fin”, một thuật ngữ của người Do Thái gốc Đức, có liên quan đến chữ “five” trong tiếng Anh. Cơ quan in tiền của Hoa Kỳ cho biết tuổi thọ trung bình của tờ $5 là 5,5 năm, trước khi được thay thế bằng đồng tiền mới. Một thống kê năm 2009 tiết lộ trong tất cả các mệnh giá của đồng đô la lưu hành trên thị trường, đồng $5 chiếm khoảng 6%.

Ấn bản mới của đồng $5, được phát hành ngày 13/3/2008 nhân kỷ niệm ngôi nhà của Tổng thống Lincoln đã được cải tiến rất nhiều về kỹ thuật in tiền như hình in chìm (watermark) và sợi chỉ an toàn, sẽ biến thành màu xanh qua tia cực tím. Mục đích để tạo khó khăn đối với những kẻ làm bạc giả cũng như người sử dụng dễ phân biệt.

Còn phải kể tới kỹ thuật “in chữ li ti” hay còn gọi là “in vi mô” (microprinting) được áp dụng cũng vì mục đích như đã nói. Chẳng hạn như các dòng chữ “FIVE DOLLARS”, “USA FIVE” và "E PLURIBUS UNUM” được in trên mặt trước và sau của đồng tiền. Rất khó có thể sao chép những dòng chữ này trên máy photocopy.

Đồng $5, Tổng thống Abraham Lincoln, phát hành năm 2006

Ấn bản mặt sau của đồng $5, phát hành năm 2006, là hình Đài kỷ niệm Lincoln tại Wahshington D.C. có khắc tên của 48 tiểu bang. Tuy nhiên, trong hình trên đồng tiền chỉ có tên của 26 tiểu bang trên mặt tiền của Đài kỷ niệm.

Cũng trên mặt sau của đồng $5 có số 5 xuất hiện ở góc phải, phía dưới được in to bằng màu để giúp những người sử dụng dễ nhận diện. Bên cạnh đó là dòng chữ “USA FIVE” màu trắng dùng kỹ thuật in microprinting.

Mặt sau đồng $5, Đài kỷ niệm Abraham Lincoln, phát hành năm 2006

Điều đặc biệt chân dung trên đồng $10 không phải là Tổng thống Hoa Kỳ như vẫn thường thấy trên các đồng tiền hiện đang lưu hành. Chỉ có 2 trường hợp đặc biệt này là Alexander Hamilton (1755 – 1804), Bộ trưởng Ngân khố đầu tiên của Mỹ, nhiệm kỳ 1789 – 1795; người thứ hai là Benjamin Franklin (1706 – 1790), nhà khoa học, nhà phát minh nổi tiếng của Hoa Kỳ.

Trên đồng $10 có chân dung của Alexander Hamilton, một trong 4 người đã có công khai sinh ra đồng đô la cho ngành tiền tệ của Hoa Kỳ. Ông là người không ra đời tại lục địa Mỹ châu. Hơn thế nữa, chân dung của Hamilton, không có khung hình bầu dục và hình ông nhìn về phía bên trái trong khi chân dung của các đồng tiền khác lại hướng về phía phải!

Ngày 17/6/2015 Bộ trưởng Ngân khố Jack Lew tuyên bố chân dung của Hamilton trên đồng $10 sẽ được thay thế bằng chân dung của một phụ nữ vào năm 2020. Vấn đề người phụ nữ nào sẽ có mặt lần đầu tiên trên đồng đô la vẫn còn bỏ ngỏ qua nhiều ý kiến của dư luận. Một chính khách thậm chí còn đề nghị chân dung đó sẽ là bà Margaret Thatcher… nhưng bà lại là nữ Thủ tướng của nước Anh!

Đồng $10, với chân dung Alexander Hamilton, phát hành năm 2006

Vào năm 1933, để hỗ trợ nền kinh tế Hoa Kỳ trong thời kỳ Đại khủng hoảng, một lượng tiền lớn đã được tung ra thị trường. Kể từ năm 1963 trên đồng tiền không còn in dòng chữ “WILL PAY TO THE BEARER ON DEMAND” (Trả cho người sở hữu khi có nhu cầu), thay vào đó là “THIS NOTE IS LEGAL TENDER FOR ALL DEBTS, PUBLIC AND PRIVATE” (Đồng tiền này là phương tiện thanh toán hợp pháp cho mọi khoản nợ, công cũng như tư).

Theo thống kê chính thức, tuổi thọ trung bình của đồng $10 là 4,5 năm, khoảng 54 tháng, trước khi nó được thay thế bằng những đồng tiền mới. Điều lý thú là đồng $10 ngày xưa còn có tên gọi là “sawbuck” chỉ vì con số 10 giống con số La Mã X thường là hai khúc cây bắt chéo để làm giá đỡ khi cưa.

Mặt sau đồng $10 với hình Tòa nhà Ngân khố, phát hành năm 2006

Từ năm 1928, chân dung Tổng thống thứ 7 của Hoa Kỳ, nhiệm kỳ 1829 – 1837, Andrew Jackson (1767 – 1845), được chọn trên tờ $20 và mặt sau là Tòa Bạch ốc. Cũng vì thế cho nên người Mỹ còn gọi giấy bạc $20 là “Jackson” hay có một tên khác là “double-sawbuck” vì có giá trị gấp đôi đồng “sawbuck” ($10).

Trước đó, đồng $20 có hình chân dung Grover Cleveland (1837 – 1908), Tổng thống 3 nhiệm kỳ (thứ 22, 23, 24) của Hoa Kỳ, từ năm 1884 đến năm 1892. Việc thay đổi chân dung các vị Tổng thống không được Bộ Ngân khố giải thích, có thể vì tính cách tế nhị của vấn đề.

Chiến dịch “Phụ nữ 20” (Women on 20s) cũng đề nghị chọn gương mặt phụ nữ trên đồng $20 vào năm 2020. Trong danh sách đề cử có Eleanor Roosevelt (Đệ nhất Phu nhân của Tổng thống 4 nhiệm kỳ Franklin D. Roosevelt), Wilma Mankiller (người Mỹ gốc thổ dân da đỏ) Rosa Parks và Harriet Tubman (hai nhà hoạt động nhân quyền người Mỹ da màu).

Tuổi thọ của đồng $20 có phần lâu hơn các đồng tiền mệnh giá thấp hơn vì ít được sử dụng. Con số thống kê năm 2013 là tuổi thọ kéo dài 7,9 năm, chiếm khoảng 11% lượng giấy bạc phát hành năm 2009.

Đồng $20, Tổng thống Andrew Jackson, phát hành năm 2003

Mặt sau đồng $20, in hình Tòa Bạch ốc, phát hành năm 2003

Trên giấy bạc $50 là chân dung Tổng thống thứ 18 (nhiệm kỳ 1869 – 1877), Ulysses S. Grant (1822 – 1885). Ông còn được gọi thân mật là “Tướng Grant”, hoạt động cùng Tổng thống Abraham Lincoln trong cuộc nội chiến giữa hai miền Nam – Bắc năm 1861.

Đồng $50, cũng còn được gọi là “Grant”, có tuổi thọ trung bình là 8,5 năm, hay 102 tháng. Sau đó được thay thế bằng giấy bạc mới và chỉ có khoảng 6% giấy $50 trong số các đồng tiền lưu hành tại Hoa Kỳ.

Năm 2005 đánh dấu lịch sử in tiền của Hoa Kỳ với kỹ thuật pha màu trong đó hình chân dung của “tướng Grant” in màu xanh, không có viền, và lá cờ Mỹ màu đỏ nằm bên phải bên cạnh con số 50 được in màu đồng. Mặt sau của đồng $50 là hình ảnh Điện Capitol, cơ quan lập pháp thuộc Quốc hội Hoa Kỳ, đặt tại thủ đô Washington D.C.

Đồng $50, Tổng thống Ulysses Grant, phát hành năm 2004

Mặt sau đồng $50, in hình Điện Capitol, phát hành năm 2004

Đồng đô la là đơn vị tiền tệ quan trọng không những đối với nền kinh tế Hoa Kỳ mà còn giữ một vai trò dự trữ trong thị trường tiền tệ của cả thế giới. Gần 80% tổng số tiền phát hành của Hoa Kỳ nằm trong tờ giấy bạc $100. Nếu chỉ lưu hành trên thị trường trong nước sẽ không có con số thống kê lớn như vậy.

Trên thế giới có tới khoảng 820 triệu tờ giấy bạc $100 được lưu hành hoặc dự trữ, biến nó thành loại giấy bạc phổ biến nhất trong các loại tiền tệ trên thế giới xét theo giá trị. Theo Cục Dự trữ Liên bang, 2 phần 3 số giấy bạc $100 hiện đang lưu hành ngoài lãnh thổ Hoa Kỳ. Giấy bạc này rất phổ biến trong giới buôn lậu ma túy và vũ khí quốc tế, đồng thời cũng được dùng như một loại trữ kim có giá trị đối với những quan chức tham nhũng tại các nước.

Tờ $100 mang chân dung một nhân vật đa tài, Benjamin Franklin (1706 – 1790). Ông là nhà khoa học về vật lý, điện từ; nhà phát minh ra cột thu lôi; nhà hoạt động nhân quyền; nhà ngoại giao và cũng là một trong những người khai sinh ra Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ.

Cũng vì thế đồng $100 còn được gọi là “Ben”, “Benjamin” hay “Franklin” hay còn có tên là “Đồng C” vì chữ C trong số La Mã là 100! Cũng cần phải nhắc lại, Benjamin Franklin và Alexander Hamilton là hai nhân vật duy nhất không phải là Tổng thống Hoa Kỳ nhưng vẫn có vinh dự xuất hiện trên tờ $100 và $10.

Mặt trái của đồng $100 là Tòa nhà Độc lập tại Philadelphia, trong khi trên những đồng tiền khác đều là dinh thự hoặc đài kỷ niệm tại thủ đô Washington D.C. Chiếc đồng hồ trên tòa nhà chỉ 4g10 trên những đồng tiền phát hành trước năm 2009 và kể từ đó những bản in sau này đồng hồ lại chỉ 10g30!

Kể từ năm 1969, tờ $100 là đồng tiền có mệnh giá lớn nhất khi chính phủ Hoa Kỳ ngưng phát hành những tờ $500, $1.000, $5.000 và $10.000. Tuy nhiên, 4 loại tiền giấy có giá trị này vẫn được công nhận trong giao dịch tiền tệ đối nội cũng như đối ngoại giữa các ngân hàng.

Đồng $100, Benjamin Franklin, phát hành năm 2009

Mặt sau đồng $100, tòa nhà Độc Lập, phát hành năm 2009

Tại Việt Nam, có một thực tế, không biết nên buồn hay vui, vì có khi đi đường người ta bắt gặp những đồng đô la với mệnh giá $50 hoặc $100 nằm rải rác trên đường mà chẳng ai thèm nhặt! Hóa ra đó là đô la “hàng mã” thường rải theo các xe tang hoặc được đốt mỗi khi cúng giỗ.

Thế cho nên, có thể nói người sống thích đô la là chuyện dĩ nhiên như cô ca sĩ trong truyện tiếu lâm nói đến ở trên và người chết chắc cũng cần đô la để “lót đường”, nạp “mãi lộ” trong cuộc hành trình cuối cùng về bên kia thế giới!

Chắc chuyện này… “chỉ có ở Việt Nam”!

Chỉ có ở Việt Nam

***

(Trích Hồi Ức Một Đời Người – Chương 10: Thời xuống lỗ) 
Hồi Ức Một Đời Người gồm 10 Chương:
  1. Chương 1: Thời thơ ấu (từ Hà Nội vào Đà Lạt) 
  2. Chương 2: Thời niên thiếu (Đà Lạt và Ban Mê Thuột) 
  3. Chương 3: Thời thanh niên (Sài Gòn) 
  4. Chương 4: Thời quân ngũ (Sài Gòn – Giảng viên Trường Sinh ngữ Quân đội) 
  5. Chương 5: Thời cải tạo (Trảng Lớn, Trảng Táo, Gia Huynh) 
  6. Chương 6: Thời điêu linh (Sài Gòn, Đà Lạt) 
  7. Chương 7: Thời mở lòng (những chuyện tình cảm) 
  8. Chương 8: Thời mở cửa (Bước vào nghề báo, thập niên 80) 
  9. Chương 9: Thời hội nhập (Bút ký những chuyến đi tới 15 quốc gia và lãnh thổ) 
Tác giả còn viết tiếp một Chương cuối cùng sẽ mang tên… Thời xuống lỗ (thập niên 2000 cho đến ngày xuống lỗ)!

 ***

Xem ở Facebook 

--> Read more..

Popular posts